Với người Ba na, lễ hội truyền thống quan trọng nhất trong năm là lễ mừng lúa mới hay còn gọi là Tết mãn mùa (Chrul-col). Tuy nhiên, hiện nay, Tết Nguyên đán cũng đã trở nên rất quen thuộc với đồng bào. Những ngày này, lên với vùng cao Vĩnh Thạnh, đâu đâu cũng bắt gặp không khí náo nức chuẩn bị Tết...
“Tết Ba Na cũng có bánh chưng” - bạn Đinh Thị Lác, thôn K2, xã Vĩnh Sơn, tự hào nói với tôi vậy. Bánh chưng, tiếng Ba na gọi là Ư guốt. Nguyên liệu làm bánh cũng từ nếp; nhân đậu xanh, thịt heo; gói bằng lá dong, lá chuối rừng, buộc bằng lạt hay mây. Với các mí, các cô gái Ba Na, gói bánh chưng quả tình không đơn giản. Bánh tuy chưa được vuông vức, thẳng thớm, nhưng hương vị thảo thơm của nếp, của nhân bánh lại có sức thu hút rất lớn với họ. Bởi vậy, đã mấy Tết rồi, hầu như nhà nào ở vùng cao cũng gói bánh chưng.
Ngoài cá niên, cá nhau, cá khóa bắt từ sông suối cùng những món thịt rừng, mâm cơm ngày Tết của người Ba Na Vĩnh Thạnh thêm đủ đầy với các món ăn mang hương vị đồng bằng. Bởi đã từ lâu, nhiều gia đình ở đây đã biết nuôi heo, gà, vịt, đào ao thả cá để cải thiện bữa ăn và tăng thêm thu nhập. Không ít món ăn mới đã ra đời từ đó, chẳng như: xương heo nấu canh rau vãi, thịt mang nấu cari, lòng bò um bắp chuối rừng ...
Bok Đinh Gứ cho hay: hiện nay, thực hiện nếp sống mới, dân làng không tổ chức ăn Tết linh đình, uống rượu triền miên, vừa ảnh hưởng đến thời vụ, vừa tốn tiền của, lại dễ gây mất trật tự. Bà con vui xuân chủ yếu trong ba “mùng”, thêm chút dư âm “hết Tết còn xuân” trong vài ngày sau. Bok Gứ lại bảo, theo lệ làng, trong thời gian Tết, các gia đình không cho người thân đi xa, vì trong dịp Tết thì ông bà, tổ tiên và Giàng (trời) đều về ăn Tết. Nếu trong làng có ai đi xa, thì ông bà và Giàng không gặp mặt, không thể gieo phúc cho họ được.
Tết, tiếng Ba Na gọi là Chruh- kâl. Nếu trong những ngày cuối cùng của năm cũ, người Kinh vẫn tiễn ông táo về trời và cúng rước ông bà về ăn Tết với cháu con; thì cũng với ý nghĩa đó, người Ba Na có hai lễ cúng. Buổi sáng, cúng Ma (ông bà, tổ tiên) và buổi chiều tối cúng Giàng. Mâm cúng có phần khá đơn giản, chỉ gồm một con gà trống, cạnh là ghè rượu cần. Mâm cúng không đặt trước sân hay đầu hè, mà đặt trong nhà, trước cây cúng. Trong nhà người Ba Na, bất kể là to hay nhỏ, giàu hay nghèo, thì tất cả đều không thể thiếu là cây cúng. Cây cúng thường nằm trước cột nhà, đối diện với cổng chính từ sân trước bước vào nhà. Cúng tạ ơn thần lúa, cúng trong các dịp đám cưới, tang ma… đều diễn ra trước cây cúng này. Để giao tiếp với tổ tiên, người Ba Na vẫn lấy sáp mật ong phơi đến độ dẻo quánh, vo nhỏ như ngón tay út, bên trong có tim đèn, đính lên cây cúng và châm lửa đốt. Trên thân cây cúng nhà Bok A, chi chít những mẩu “nến” như thế.
Ngày Tết, người Ba na đốt lửa suốt ngày đêm và luôn mở rộng cửa đón khách. Khách vào nhà, nhất định phải ăn với gia chủ bữa thịt rừng, uống rượu cần đến khi về mới thôi. Tối mùng một, tất cả dân làng kéo đến nhà rông vui Tết. Đó là đêm hội đầy thăng hoa, được hết thảy dân làng mong đợi. Mỗi nhà góp ít nhất một ghè rượu cần. Sắc phục thổ cẩm truyền thống lúc này cũng được đem ra chưng diện. Các mí, các thiếu nữ ai có trang sức hãy đeo vào. Và nữa, những tấm huân chương lấp lánh trên áo thổ cẩm một số người già. Già làng và những người già trong làng khai mẻ rượu cần đầu tiên. Đội cồng chiêng do các chàng trai phụ trách, đánh cồng chiêng, nhảy múa, uống rượu suốt đêm ở nhà rông.
Ở Vĩnh Sơn, Bok Đinh Chương được mệnh danh là “nghệ sĩ của đồng bào”. Bok đã sáng tác rất nhiều ca khúc về núi rừng và con người Vĩnh Sơn, bằng tiếng Ba na. Đêm hội ở nhà rông cũng là dịp để các ca khúc ấy vang lên, từ giọng hát của những người trẻ: “Từ một con suối mọc giữa rừng Tây Nguyên anh hùng, chảy xuống sông Côn êm ả. Đak Lơ Pinh ơi…” (bài “Đak Lơ Pinh”).
Đến sáng, đội cồng chiêng tỏa đi khắp nơi, từ đầu đến cuối làng, trong suốt những ngày Tết. Những thanh âm cồng chiêng vang vọng, trầm hùng, cộng hưởng cùng tiếng vi vút của đại ngàn, tạo nên một sắc thái xuân vùng cao rộn ràng, nao nức.